Tranh luận xung quanh sách Hoàng Tuấn Công

Tiêu chuẩn

VỀ CUỘC TRANH LUẬN SÁCH CỦA HOÀNG TUẤN CÔNG: TỪ Ý KIẾN CỦA TIẾN SĨ NGHIÊM THÚY HẰNG

1. Xem trên trang của TS. Nghiêm Thúy Hằng, chưa thấy chị có bài trao đổi, tranh luận chính thức nào về sách của Hoàng Tuấn Công mà chỉ chia sẻ các ý kiến khác nhau. Chấp nhận tương tác đa chiều là dấu hiệu tốt của một nền học thuật lành mạnh, đáng khuyến khích.

Nhưng trong một comment trả lời ý kiến của người khác, ngoài thái độ đồng tình đầy tự hào về ý kiến của PGS.TS. Lê Đức Luận (xem stt trước của tôi – Lại thêm đứa dốt hay cãi), nguyên văn chị viết như sau: “Cụ (Nguyễn Lân – tôi chú thích) không hề “dốt” đâu anh nhé. Sai lầm có nhưng không nhiều, chủ yếu là do vấn đề dị bản, do bản chất đa nghĩa của thành ngữ, do vấn đề hỗn loạn chưa có luật ngôn ngữ văn tự, do biến đổi ngôn ngữ, do đặc trưng của tiếng Việt. Em tin sẽ vẫn còn các trí thức tiếp tục lên tiếng, người ta sẽ nói theo hiểu biết chuyên môn và lương tri, không có ai, kể cả những kẻ “dốt mà hay cãi” hoặc kẻ ăn mày ngoài đường đáng bị coi là “vứt đi” đâu anh. Phàm là làm việc gì cũng nên cẩn trọng, thấy vậy mà không phải vậy.”

Đó là chính kiến của Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng. Dù ngắn gọn, nhưng chứa nhiều nghĩa!

Tôi đồng tình với chị, như tôi đã viết ngay ở bài đầu tiên giới thiệu sách của Hoàng Tuấn Công, rằng cụ Nguyễn Lân không “dốt”. Trong thời điểm lịch sử 90% người Việt mù chữ đang học bình dân học vụ, một thầy giáo được đào tạo trong nhà trường của Pháp không thể bị xem là dốt. Nếu quả thật một thân cụ làm cả đống từ điển với cả chục ngàn mục từ, thành ngữ, tục ngữ thì cũng có thể xem là phi thường.

Nhưng phàm không lượng sức mình thì công việc tất yếu đổ vỡ. Hòn đá khổng lồ anh muốn vác lên vai sẽ đè nát chân anh hoặc đẩy anh xuống hố. PGS. Đoàn Lê Giang nói đúng: “Hồi xưa các cụ cung khiêm lắm, biết mười nói một. Cụ Lân là ca rất lạ!”

2. Tôi dám chắc không có từ điển nào một cá nhân tự hoàn thành. Các từ điển dù đứng tên một cá nhân vẫn luôn có sự kế thừa, phát triển từ nhiều nguồn để đi dần đến sự hoàn chỉnh trong tính tương đối của nó. Cụ Lân lại không làm thế. Gần như các từ điển của cụ đều là sản phẩm đoán mò và suy diễn một cách chủ quan, vô căn cứ nên sai là tất yếu. Căn cứ tốt nhất là thực tiễn sống động của ngôn ngữ và đời sống văn hóa, từ sự ghi nhận của các từ điển trước đó, nhưng cụ đã không làm như người ta vẫn làm.

Về thành ngữ, tục ngữ, lẽ ra khảo sát từ cách dùng của đời sống dân gian, kể cả của tác gia văn chương bác học, thì đa số cụ lại tự cho ví dụ theo cách nghĩ của mình. Chẳng hạn, tại mục từ “Rút dây động dừng”, cụ viết “(Dừng là cốt để trát bức vách). Ý nói: Đả động đến điều gì thì ảnh hưởng đến điều khác (Có người nói nhầm là: Rút dây động rừng)”. Rõ ràng là cụ không thực tế và nói ngược. Khoan nói đúng sai, khi đa số mọi người đều nói “Rút dây động rừng” thì phải xem xét đã chứ không thể phán bừa “có người nói nhầm”, trong khi chính mình nhầm mà không biết. Cũng như thế, “Chó già, gà non”, cụ viết “Ý nói: Thịt chó già không tanh, thịt gà non mới mềm”. Chắc chắn cụ không biết thuật thiến chó thiến gà. Nhưng trước khi phán về ẩm thực, có thể cụ ăn chay, không biết thịt chó, thịt gà là gì, thì hãy đi hỏi dân sành ăn trước khi phán có lẽ sẽ không đến nỗi sai. Những câu khó như “Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào”, cụ là đàn ông cụ mù mờ về cách ứng xử của nàng dâu nên nói sai, chứ đến câu: “Nhân nào quả nấy”, đứa trẻ con cũng biết đó là luật nhân quả, cụ lại phán xanh rờn: “Ý nói Con cái chịu ảnh hưởng sâu sắc của cha mẹ” thì quả là năng lực hiểu biết của cụ rất có vấn đề! Tôi không thể tưởng tượng nổi, câu “Gieo gió gặt bão” nằm trong cửa miệng của người bình dân vô học mà cụ lại có thể tưởng tượng ra “dịch một tục ngữ Pháp” của ông Tây học nào đó. Đến câu này thì đúng là cụ làm chính trị chứ không phải làm từ điển: “Giàu bán chó, khó bán con Nói lên sự bất công tệ hại của xã hội cũ”. Cái đầu chính trị làm cụ biến “ló” (lúa) thành “chó” mới tài. Những giáo sư, tiến sĩ ăn theo nói leo cụ gọi cái bản sai lệch đó thành “dị bản” mới thật là liên tài với cụ.

Một số ví dụ trên trong rất nhiều ví dụ mà Hoàng Tuấn Công đã viết là do “bản chất đa nghĩa” của thành ngữ, tục ngữ hay do sự thiếu hiểu biết rồi tự bịa ra dị bản và xuyên tạc nghĩa theo cách hiểu tùy tiện của cá nhân cụ Nguyễn Lân?

Về từ và ngữ Hán Việt, xem toàn bộ cách giải thích của cụ, có thể khẳng định chắc chắn cụ không biết chữ Hán. Chẳng hạn, mục từ “Hàn mặc”, cụ giải nghĩa: “dt (H. hàn: lạnh, nghèo khổ; mặc: mực – nghĩa đen là bút mực) Văn chương (cũ) Quen nghề hàn mặc, không chú ý đến thể dục.” Tiếp theo mục từ “Hàn nho”, cụ lại giải thích: “dt (H. hàn: ngọn bút; nho: nhà nho) Học trò nghèo” Đổi màu lữ khách, thay hình hàn nho (Tự tình khúc)”. Khổ thân cụ. Chắc là cụ có tra cứu từ điển Hán – Việt, nhưng không phân biệt được Hàn (ngọn bút) với Hàn (nghèo) nên lộn tùng phèo. Mà nhiều người không phân biệt được tự hình Hán, họ vẫn có thể dựa vào kết hợp từ “hàn mặc” với “hàn nho” để đoán nghĩa của từ tố, nhưng cụ lại không làm được! Không biết cái câu “Quen nghề hàn mặc, không chú ý đến thể dục” cụ lấy ở đâu ra, có vẻ như cụ ghét chuyện bút mực như Mao ghét trí thức, cho nên mới sáng chế ra cái câu ngồ ngộ ấy? Rõ ràng, toàn bộ từ điển Nguyễn Lân chỉ là đoán mò theo âm Hán Việt, cho nên xác suất hên xuôi, may rủi. Mà đã xác suất thì chỉ có tối đa 25% đúng.

Về chính tả, tôi không đặt vấn đề phải lấy âm Hà Nội làm chuẩn trong khi chưa có bộ luật chính tả, nhưng ít nhất cụ phải chọn một cách phát âm phổ biến, hoặc chua rõ hai, ba cách viết nào đó. Đằng này, cụ lại lấy âm địa phương hay nói ngọng của cụ ra để khẳng định đó là chính tả mà theo giai thoại, rằng cụ từng nhìn ai viết sai chính tả là cụ như thấy xúc phạm nghiêm trọng. “Xương quai xanh” thì cụ viết là “xương quai sanh”, “sàm sỡ” thì cụ viết là “xàm xỡ”, “sóng soài” thì cụ viết là “xóng xoài”, “trỗi dậy” thì cụ viết là “chỗi dậy”, “giải thể” cụ viết là “dãi thể”, “rơm rớm” thì cụ viết là “dơm dớm”, “ru rú” thì cụ viết là “giu giú”…

Những trường hợp trên trong vô số các trường hợp tương tự trong sách Nguyễn Lân là “do vấn đề hỗn loạn chưa có luật ngôn ngữ văn tự, do biến đổi ngôn ngữ, do đặc trưng của tiếng Việt” hay do chính sự hỗn loạn bất chấp quy tắc ngôn ngữ, bất chấp quy luật biến đổi ngôn ngữ, bất chấp đặc trưng tiếng Việt của chính người làm sách?

3. Thôi thì cái thời cụ Nguyễn Lân tư duy theo cách một nhà giáo dạy bình dân học vụ, làm từ điển như cụ có thể giúp được điều gì đó cho hàng triệu người mù chữ. Tất nhiên là tôi nói ở phần chữ, chứ tục ngữ, thành ngữ dân gian thì chẳng giúp gì, thậm chí còn bị người dân vô học cãi phăng, vì tục ngữ, thành ngữ là sản phẩm của họ không thể đem ra xuyên tạc được. Đáng nói là những ý kiến của những người có học hàm học vị ở thời đại phổ cập hóa đại học mà lại tiếp tục sai theo vết sai của cụ. Các ý kiến tranh luận, đúng ra là bênh vực cho cụ Nguyễn Lân lại chỉ biết dựa vào Từ điển Nguyễn Lân để chống chế, khác gì tư duy cối xay?

Có bào chữa cách gì thì lỗi đầu tiên vẫn thuộc về cụ Nguyễn Lân. Cụ đã sai dẫn đến những người sùng bái cụ sai theo. Cái sai chồng lên cái sai và không biết hối cải. Sinh thời cụ nói cụ cần sự góp ý. Nhưng nói vậy mà không phải vậy, ngay đến người uyên bác như học giả An Chi góp ý cũng bị cụ mắng cho là “vô văn hóa”. Học phiệt là một cố tật chỉ có thể lật đổ chứ không thể góp ý, bởi vì chính nó tạo ra thần tượng giả đầu độc nhiều thế hệ.

Tranh luận học thuật không có chuyện kính trên nhường dưới mà đòi hỏi sòng phẳng. Aristotle cãi nhau với thầy Plato đến mức tự tách trường riêng và người Hy Lạp chưa bao giờ xem người học trò kia là thiếu “lương tri”, chị Nghiêm Thúy Hằng ạ! Ở thời đại dân chủ, người ta còn dám cãi cả Chúa để tìm chân lí và tiến đến văn minh, huống hồ là một người trần mắt thịt như cụ Nguyễn Lân mà chị yêu cầu không được phép cãi để giữ “lương tri”.

Kẻ “dốt mà hay cãi” như GS. TS. Nguyễn Đức Tồn, PGS.TS. Lê Đức Luận,… và cả chị nữa, đúng là “không vứt đi” nhưng rất có hại. Bởi chính những người này đã đem cái sai chồng lên cái sai, biến sai thành đúng một cách trí trá gây nhiễu loạn học thuật, làm méo mó tiếng Việt. Ai cũng có cái dốt, nhưng nói như dân gian, dốt thì phải dựa cột mà nghe. Cãi cùn thì dốt lại chồng thêm dốt và không thể hy vọng có sự tiến bộ được.

Chị nên nhớ Hoàng Tuấn Công không phủ nhận sạch trơn những gì tồn tại trong Từ điển Nguyễn Lân. Nhiều chỗ Hoàng Tuấn Công chỉ đính chính và bổ túc một cách hiển ngôn. Chị nói thành ngữ vốn đa nghĩa. Tôi bổ sung thêm, không chỉ thành ngữ, bản thân các kí hiệu, biểu trưng đã luôn tồn tại không dưới một nghĩa. Nghĩa luôn có tính dự phòng, hoặc bị trượt liên tục trên chuỗi biểu đạt (theo Lacan), hoặc phát tán với những khác biệt (theo J.Derrida). Có nghĩa là, không có kí hiệu nào cố định mà luôn vận động và chuyển nghĩa trong quá trình sử dụng. Vì thế, không có từ điển nào nói hết được nghĩa của từ hay thành ngữ, tục ngữ. Từ điển luôn có giới hạn. Nó không là tác phẩm diễn giải theo lối phân tích, bình luận. Nhưng nó phải luôn cập nhật. Tất nhiên nó phải dựa vào cái gốc để từ đó phát sinh cái khác chứ không chơi trò cắt ngọn và giải nghĩa méo mó như cụ Nguyễn Lân.

4. Tôi nói ra điều trên cũng đồng nghĩa với việc không xem Hoàng Tuấn Công là tuyệt đối như một thần tượng mới thay thế cho thần tượng cũ Nguyễn Lân mà nhiều bạn đọc đã tung hô. Trong sách của mình, với tư cách không phải là từ điển mà là “phê bình và khảo cứu”, Hoàng Tuấn Công cũng có những giới hạn nhất định. Mặc dù Hoàng Tuấn Công không sai, nhưng không ít chỗ Hoàng Tuấn Công tự rơi vào bẫy của sự duy lí, thoát li hẳn cái kinh nghiệm cảm tính của dân gian. Chẳng hạn như câu: “Đường đi hay tối, nói dối hay cùng”, anh nhất quyết hình thức đúng phải là “Đường tắt hay tối, nói dối hay cùng”, trong khi cái câu kia mới có tính thông tục hơn. Vẫn nghĩa như anh nói, nhưng dân gian chẳng chặt chẽ về cách dùng từ như anh nghĩ. Nếu luận theo lối bác học, anh luận theo Khổng chứ tôi luận theo Lão – Trang thì, nói “đường đi hay tối” có khi còn thâm sâu hơn “đường tắt hay tối”, bởi vì Lão – Trang chủ trương con đường không bị tắt/ tối là… không có con đường. Lỗ Tấn nói, thế gian làm gì có con đường, chẳng qua người ta đi nhiều thành con đường. Đi theo đường cũ, tức lối mòn chưa hẳn đã sáng, vì không thể có tự do, khai phóng. Dân gian cần nghĩa tổng quát hơn là chiết tự ra theo lối bác học. Chẳng hạn, “chú như cha, già như mẹ” là nói cho có vần, thuận mồm với nghĩa tổng quát là xem bề trên ruột thịt như bậc cha mẹ, càng chiết tự hay tách vế ra càng thấy vô lí vì ít ai hiểu “già” là “dì” (*). Cũng như “lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam” là nói cách chọn hướng xây nhà, còn lấy vợ đàn bà thì hiển nhiên, chỉ để mặc định cho một việc phải làm ở vế sau. Câu “Tai vách mạch rừng” anh khăng khăng phải là “Tai vách mạch dừng” với cái lí “dừng ở đây là bức vách. Không phải tai vách mạch rừng”. Vì dừng là một bộ phận của vách, vách là bộ phận của ngôi nhà, nơi (theo nghĩa đen) hai người trao đổi chuyện bí mật, riêng tư… Nếu nói “Tai vách, mạch rừng” thì một là bức vách, một là cái mạch gì đó tận trên rừng thì nghe thật vô lí” [tr.21]. Rõ ràng cái bẫy duy lí tưởng chừng có lí về quan hệ giữa “vách” và “dừng” (giống như quan hệ thúng/ mê mà Lê Đức Luận đã cãi với anh) đã làm anh mắc kẹt trong cái vô lí mà anh đã phê bình cụ Nguyễn Lân ở câu “Rút dây động dừng”. Anh hỏi “dứt dây gì ở bức vách?” trong câu “Bứt dây động rừng”, trong khi người ta cũng có quyền hỏi “mạch” gì ở trong bức vách trong câu “Tai vách mạch dừng”? Anh dẫn tục ngữ Hán “Tưởng hữu phùng, bích hữu nhĩ” mà quên tục ngữ Việt: “Rừng có mạch, vách có tai”. Hai vế có vẻ tách biệt, không cần có quan hệ nào giữa “rừng” và “vách” mà vẫn hợp thành nghĩa chung. Đơn giản thế này, rừng có mạch, vách có tai, chuyện bí mật, riêng tư anh đã nói ra ở đâu, dù trong rừng sâu hay ở nhà kín, cũng có thể bị người khác nghe được. Không phải trường hợp nào cũng truy về gốc Hán, bởi vì, hoặc là cái gốc Hán kia đã bị Việt hóa và biến đổi theo cách của dân gian, hoặc là giữa Hán và Việt chỉ tồn tại tương đương như là hiện tượng gặp gỡ, cả về từ Hán Việt lẫn thành ngữ, tục ngữ. Nhiều trường hợp tục ngữ, thành ngữ không thể chẻ hoe ra từng vế hay từng từ mà diễn nghĩa rõ ràng được.

Tất nhiên, trong giới hạn của bài viết, tôi chỉ đưa ra vài ví dụ, việc góp ý cho toàn quyển sách Hoàng Tuấn Công lại cần thời gian và trong một bài viết khác. Tôi không phê Hoàng Tuấn Công sai mà chỉ góp ý ở sự duy lí cực đoan không cần thiết. Ở đây tôi chỉ muốn vạch ra cho chị Nghiêm Thúy Hằng thấy cái điều chị dạy người khác: “Phàm là làm việc gì cũng nên cẩn trọng, thấy vậy mà không phải vậy” là như tôi đã phân tích khách quan trong toàn bài chứ không phải như chị nghĩ trong đầu rằng, người ta phê cụ Nguyễn Lân là thiếu “lương tri” và không “cẩn trọng”!

9/9/2017

Chu Mộng Long

———–

(*) Theo chị Bình Nguyên, “già” trong câu “chú như cha, già như mẹ, “già” chính là chị gái của mẹ. Có lí. Nhưng lại vô lí, vì không tương ứng với “chú”, em của cha ở vế trước. Nếu thế thì vế trước phải là “bác”. Theo tôi, có thể “già” đó là biến âm hoặc láy của dì, em gái của mẹ. Nghĩa tổng quát, dù chú hay dì là bậc đàn em của cha hay mẹ vẫn phải được xem như bậc cha mẹ. “Mất cha còn chú, mất mẹ bú dì”.

Và như vậy vẫn là biến âm cho thuận mồm, và phải viết là “dà” (dì dà) chứ không phải là “già” như sách Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp của Nguyễn Thái Hòa và một số từ điển đã viết(?!).

———–

Bài liên quan:

DỐT MÀ HAY CÃI (1)

Đọc xong bài trả lời của Hoàng Tuấn Công, tôi không trách tác giả Thanh Hằng mà trách Giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn Đức Tồn dốt mốc mũi!

Thôi thì “tràng” bị đánh lừa bởi một số từ điển dở hơi, và đặc biệt, bị hiểu là cái vạt áo để che bướm đàn bà thì còn có thể tha thứ khi cái đầu ông giáo sư chỉ nghĩ đến cái bướm phụ nữ. Nhưng câu “chó già, gà non” mà nghĩ đến ẩm thực được thì bái phục sát đất cho tâm hồn ăn uống của ngài giáo sư răng chắc!

Giáo sư dốt thì kẻ học trò viện dẫn thầy mình ra để tranh luận bị dốt theo là phải!

Trong bài này, xin góp với Hoàng Tuấn Công một ý: “Tlàng” không phải là âm cổ của “tràng”. Bản thân “tràng” đã là âm cổ của cổ áo. Từ điển Việt – Bồ – La dùng chữ Latin kí âm cho tiếng Việt theo cách phát âm của mấy ông Tây học tiếng Việt nên có rất nhiều phụ âm như thế. Chẳng hạn “ch” thành “ci”, “tr” thành “tl”, “bl”… (chúng = ciúm, trăng = tlăng, blăng…). Các nguyên âm chính, âm cuối cũng bị đọc méo đi, như “i” thành “ê”, “ô” thành “o”, “m” thành “n”, “ng” thành “m” (linh hồn = lênh hồn, linh nghiệm = lênh nghiện, chúng tôi = ciúm toi…). Nó cũng giống như báo Nhân dân kí âm tiếng Tây cho người Việt không biết tiếng Tây đọc và cứ ngỡ như người Tây cũng phát âm như người Việt.

Giới ngữ âm học lịch sử đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi dựa vào cuốn từ điển này khẳng định như đinh đóng cột rằng, tiếng Việt từ thế kỉ thứ 16 trở về trước có phụ âm kép (!?). Gần đây có người còn moi trong từ điển ấy ra để làm chứng về nhiều từ phát âm giống tiếng địa phương Quảng Nam hay Bình Định nữa mới kinh!

CML

Link bài trả lời của Hoàng Tuấn Công:

http://tuancongthuphong.blogspot.com/2017/09/ve-bai-cuon-sach-bat-loi-giao-su-nguyen.html?spref=fb

————–

DỐT MÀ HAY CÃI (2)

Cô nàng Thanh Hằng điển hình cho loại học sinh dốt của nền giáo dục nhồi sọ, chỉ biết ăn theo nói leo, nhưng lại tỏ ra hiểu biết để phản biện cho oai.

Lấy ý kiến ông giáo sư này bà tiến sĩ nọ ra làm chỗ chống lưng để múa mồm. Rất tiếc là mấy cái lưng như GS. Nguyễn Đức Tồn, TS. Lã Trọng Long, nhà văn nhà veo Ngô Văn Phú lại chỉ là cái lưng không có cái đầu. Tóm lại là lưng ba ông chụm lại nối thêm cái đầu Thanh Hằng nên càng nói ra càng lộ sự dốt mà hay cãi. Không chỉ cãi mà còn xuyên tạc, chụp mũ!

Thành ngữ, tục ngữ là sản phẩm của dân gian. Không hiểu thì về học hỏi dân gian. Những giáo sư, tiến sĩ, nhà văn như ông Tồn, ông Long, ông Phú chỉ biết sách vở mà lại là sách vở của Nguyễn Lân nên dốt là phải.

Bố tôi ít học, nhưng tôi còn nhớ đời lời của bố tôi dạy tôi lúc còn nhỏ. Đó là lúc tôi để sẩy mất con chim, tôi ngồi tiếc và khóc, bố tôi an ủi: Thôi, chim trời cá nước, tiếc làm gì con! Nghĩa nằm ở đó, ông Tồn chỉ biết từ điển của Nguyễn Lân nên “chưa nghe thấy” là tự thú mình dốt chứ không phải tôi mắng!

Thanh Hằng dẫn lời GS. Nguyễn Đức Tồn: “GS. Nguyễn Lân đúng, bởi vịt xiêm có gốc từ Thái Lan (từng gọi là Xiêm). Người miền Bắc gọi con vịt gốc Thái Lan là ngan, còn người miền Nam gọi là vịt xiêm –cách gọi theo nguồn trong tiếng Việt”. Tôi lạy sống ông Tồn ba lạy, rằng vịt xiêm gốc México, Trung Mỹ và Nam Mỹ chứ gốc Thái Lan hồi nào? Chẳng lẽ ông không đọc được sách động vật học hay sao mà dựa vào cái vỏ từ “xiêm” để khẳng định gốc Thái Lan?

Thanh Hằng viết ngu như thế này mà cũng viết được: “Nhà văn Ngô Văn Phú cho biết, thời điểm cuốn từ điển của GS. Nguyễn Lân ra đời, vốn từ tiếng Việt chưa phong phú như bây giờ, Việt Nam cũng chưa giao lưu quốc tế rộng như hiện nay. Vì thế, sai sót hay cách hiểu nghĩa khác với hôm nay là bình thường”. Thành ngữ, tục ngữ dân gian là của dân gian, do dân gian sử dụng, nghĩa của chúng có thể biến đổi trong quá trình sử dụng, nhưng sự biến đổi ấy liên quan gì đến vốn từ tiếng Việt và giao lưu quốc tế?

Nói về sản phẩm của dân gian mà thoát ly khỏi thực tiễn sống động của dân gian, lấy cách hiểu của người chỉ biết sách vở áp đặt vào đó thì không sai mới là chuyện lạ. Bài của Thanh Hằng chứng minh bệnh dốt có khả năng lây lan từ thầy sang trò và trở thành dốt có hệ thống! Bệnh này rất khó chữa vì kẻ dốt hay cãi cùn và có thói quen xuyên tạc, chụp mũ chứ không chịu học hỏi.

CML

Link bài trả lời của Hoàng Tuấn Công:

http://tuancongthuphong.blogspot.com/2017/09/ve-bai-cuon-sach-bat-loi-giao-su-nguyen_5.html?spref=fb 

——————–

LẠI THÊM ĐỨA DỐT HAY CÃI

Tôi không thể tưởng tượng nổi cái anh Phó giáo sư – Tiến sĩ (hay Phó cối?) Lê Đức Luận trong bài viết trên trang Infonet đọc hiểu kiểu gì mà chữ tác tạc ra chữ tộ rồi cãi chày.

Tôi không tự cho mình biết tuốt, nhiều thành ngữ, tục ngữ chưa từng nghe thì không thể biết, chỉ có ngồi dựa cột nghe người ta giảng và học hỏi.

Đọc không đúng hay cố tình đọc sai rồi mang ra tranh luận một cách xuyên tạc đều tệ hại, đáng bị mắng!

1. Hai câu “Lành làm gáo, vỡ làm môi”, “Lành làm thúng thủng làm mê”, rành rành Hoàng Tuấn Công phê Nguyễn Lân “thiếu ý quan trọng” và chua thêm nghĩa bóng chứ không phê Nguyễn Lân sai. Vậy mà anh phó cối diễn giải dài dòng theo logic của mình (chứ không phải của dân gian) rồi phán Hoàng Tuấn Công sai và kết luận “Theo tình huống này thì ý của cụ NL là hợp lí”. Thưa ông phó cối, có vô số thành ngữ, tục ngữ của dân gian đều theo phép loại suy chứ không theo cái lí “thúng”/ “mê” trong cách suy luận logic của ông đâu! Nghĩa bóng Hoàng Tuấn Công thêm vào: “Không sợ đụng chạm, không sợ hỏng việc, sẵn sàng chấp nhận mọi tình huống, kể cả sự đổ vỡ” là hoàn toàn chính xác trong không ít cách sử dụng của dân gian đấy, ông phó cối ạ!

2. Câu “Mặt sứa gan lim”, Hoàng Tuấn Công không ngu đến mức như cách đọc hiểu của ông phó cối: “Ruột của con sứa thì đen nhưng mà rắn như lim thì anh Công chỉ tưởng tượng ra thôi”. Có nghĩa là ông Phó cối cho rằng Hoàng Tuấn Công nói gan con sứa đen và cứng như gỗ lim! Rành rành Hoàng Tuấn Công giải nghĩa theo từng vế: “Mặt sứa” (bề ngoài) thì tỏ vẻ hiền lành, trắng bợt, mềm nhũn như con sứa (một loài động vật không xương sống ở biển, thân rất mềm, trắng), nhưng bên trong (gan) lại đen và rắn như gỗ lim”. Chủ ngữ của câu này là ai? Ông phó cối hiểu là con sứa à? Con sứa có mặt thì mềm, gan thì cứng à? Đứa trẻ lớp ba cũng hiểu chủ ngữ là kẻ nào đó có mặt sứa nhưng gan lim chứ không thể hiểu con sứa có gan lim! Trong trường hợp này, riêng “mặt sứa, gan lim” là thành ngữ, nó tồn tại như một từ chỉ tính chất của một chủ thể khác chứ không phải là một câu tục ngữ có đủ chủ ngữ, ông phó cối ạ!

3. Câu “Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào”, cả Nguyễn Lân lẫn Phó cối Lê Đức Luận sai đứt đuôi con nòng nọc mà còn gân cổ cãi. Rõ ràng là Nguyễn Lân đã diễn xuôi một cách thô thiển: “Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào” ý nói chỉ sợ chồng ghét thì khó sống với nhau, chứ mẹ chồng mà ghét thì không ngại”. Ông Phó cối có biện luận kiểu gì cũng không thuyết phục hơn Hoàng Tuấn Công: “Vì sao chồng ghét thì khó sống, trong khi mẹ chồng ghét thì lại không đáng ngại ? GS chỉ mới dừng ở mức diễn xuôi câu tục ngữ, nên không thoả mãn được nhu cầu tìm hiểu của người đọc. Ý dân gian là: khi chồng giận dữ (ghét) thì nên tránh đi (ra). (Có câu “Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa một đời không khê” hoặc “Chồng đánh tại miệng”). Còn mụ gia (mẹ chồng) có mắng (ghét) thì cũng không nên tỏ thái độ, giận dỗi bỏ đi mà nên biết chịu đựng, làm lành (vào). Đó là lời răn dạy cách ứng xử, ăn ở của người vợ đối với chồng và mẹ chồng. Dị bản: “Chồng giận thì ra, mụ gia giận thì vào”. Đó đúng là một câu răn dạy đạo lí ứng xử chứ không phải chân lí. Cách diễn giải dây cà ra dây muống của ông Phó cối trong bài viết không bảo vệ mà càng làm đổ vỡ thần tượng mà các ông tôn sùng!

4. Câu ““Mỡ để miệng mèo”, Nguyễn Lân giảng nghĩa cũng rất thô thiển: “Mỡ để miệng mèo. Đặt trước mặt người ta một thứ gì mà người ta đương mong muốn”. Hoàng Tuấn Công bình nhẹ nhàng: “Chưa đúng điều cần nói của thành ngữ. Nghĩa bóng: Để một vật quý trong tình trạng hớ hênh, khiến kẻ đang thèm muốn có thể dễ dàng chiếm đoạt; Hành động, việc làm hớ hênh, dại dột”. Sai là sai chỗ nào mà đặt câu hỏi: “Vậy ông NL có sai và HTC đúng không?”. Tôi lại tin chắc là ông Phó cối đọc không hiểu Hoàng Tuấn Công viết gì nên cứ theo đà tỏ ra hiểu biết mà diễn giải lòng thòng và càng diễn giải càng thô thiển. Nếu góp ý thêm cho Hoàng Tuấn Công thì theo tôi nên nói gọn thế này: vẫn còn thiếu nghĩa, “mỡ để miệng mèo” là “khiêu khích”! Chẳng hạn, bà mẹ nói với con gái: trông mày hơ hớ như thế khác nào mỡ để miệng mèo? Hàm ý bà muốn nói ăn mặc như thế là khiêu khích bọn đàn ông dâm đãng.

Xem ra bài phản biện của một chuẩn Phó giáo sư – Tiến sĩ còn tệ hơn bài viết ăn theo nói leo của nhà báo, nhà giáo Thanh Hằng!

Thành ngữ, tục ngữ khi đã kết tinh thành hình thức biểu trưng, nó luôn có tính dự phòng và mở ra liên tục về nghĩa. Không có diễn giải nào kết thúc.Tôi không xem Hoàng Tuấn Công tuyệt đối đúng trong mọi trường hợp. Góp ý cho Hoàng Tuấn Công là cần thiết. Nhưng nhắc anh Phó cối một câu, trước khi muốn phản biện ai đó, hãy rèn kĩ năng đọc hiểu cho tốt để hiểu người ta viết gì đã rồi hãy vung chày!

CML

Link bài của Lê Đức Luận:

http://infonet.vn/sach-bat-loi-nha-giao-nguyen-lan-co-cau-tac-gia-sai-ma-cu-nguyen-lan-dung-post235971.info

 

About chumonglong

Thấy việc nghĩa không làm là đồ hèn. Thấy việc đúng mà bất lực là đồ ngu. Thấy việc thiện mà làm ngơ là đồ ích kỉ. Thấy đồng loại đau khổ mà vẫn vui chơi là đồ bất lương. Còn sức khỏe, trí lực mà tìm chỗ ẩn cư thì cũng là phường vô đạo!

Đã đóng bình luận.